Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

9 nỗi sợ hãi lớn nhất của người Việt 9 nỗi sợ hãi lớn nhất của người Việt

Một số người tỏ ra ác ý khi gọi chúng ta là những "Người Việt sợ hãi". Tuy nhiên, tôi lại thấy nó cũng có phần đúng. Dưới đây là một vài ý quanh cái “mác” không hay này. Chúng ta thử “tự phê” để rút kinh nghiệm xem sao.
Người Việt nổi tiếng sáng tạo, đoàn kết, anh hùng, bất khuất, trước mọi kẻ thù xâm lược. Người Việt được thế giới biết tới nhờ những thành công trong các cuộc chống lại những kẻ thù rất mạnh trong lịch sử. Nhưng ngoài thành tích đáng tự hào trong chiến tranh đó, trong đời thường của hiện tại, người Việt lại là những người sợ hãi và nhút nhát. Điển hình là:

1. Sợ nghĩ khác thiên hạ 
Nhiều người Việt không dám nghĩ khác những người xung quanh, dù biết rằng những người xung quanh đang làm sai. Nếu một đám người vượt đèn đỏ, có ai đó một mình dừng không vượt thì lập tức sẽ có tâm lý “sợ hãi” những con mắt đang nhìn mình như một kẻ điên. Vì thế, anh ta lại cố theo đoàn người, nghiễm nhiên theo nhau làm bậy. Nếu nhìn môi trường nhiều rác, người Việt thà đi nhanh để tránh, còn hơn dừng lại để làm vệ sinh, hoặc vận động người khác cùng làm. Thà khen một người nước ngoài nhặt rác ở bờ hồ Hoàn Kiếm, nhưng người Việt lại không tự mình xung phong làm việc đó trước. Đơn giản vì không ai nghĩ như thế!
2. Sợ hãi cảnh sát giao thông 
Nếu đang đi xe đúng làn đường, không có bất kỳ biểu hiện sai trái nào, nhưng chỉ cần nhìn thấy cảnh sát giao thông giơ gậy vẫy lại, lập tức đã sợ hãi bỏ chạy. Nếu không bỏ chạy được, cũng “sợ hãi” không dám hỏi lại cảnh sát xem cớ sao lại dừng xe. Nếu cảnh sát trình bày lý do dừng xe phi lý, cũng “sợ hãi” không dám “chỉnh” lại cảnh sát, dù biết rằng cảnh sát giao thông không có quyền dừng xe kiểm tra tùy tiện nếu xe không có vi phạm gì trước đó, hay không có lệnh nào từ một cấp (người) có thẩm quyền.
Nếu bạn có dịp để ý sẽ thấy cảnh những thanh niên cao to, đẹp trai, đi sai làn đường, bị cảnh sát vẫy gọi để xử lý, lập tức xun xoe, sợ hãi, sẵn sàng đưa tiền “đút lót” để được tha. Được người ta tha rồi lại “chửi” người ta sau lưng như những kẻ đê hèn. Rõ ràng mình mang ơn người ta, rồi lại chửi người ta ngay được.
3. Sợ mất bản sắc văn hóa dân tộc
Giống như một hội chứng rối loạn tâm lý lo âu có tên “lo sợ vô lý”, bất kỳ thứ gì được gắn nhãn bản sắc, người Việt đều sợ mất, sợ bị đồng hóa. Tôi có theo dõi các tranh luận gần đây và nhận thấy rất rõ điều này.
Cái bánh chưng làm bằng gạo nếp, ăn rất ngon, nhưng cũng có người sợ ăn nhiều vào ngày thường làm mất đi bản sắc văn hóa ngày Tết. Cái lịch âm đã lỗi thời, không còn ích lợi gì trong sản xuất và sinh hoạt thông thường (trừ tín ngưỡng), nhưng người Việt vẫn sợ bỏ đi sẽ đánh mất bản sắc văn hóa. Tết cổ truyền ăn uống lè phè, dài lê thê cả tháng, có người đề nghị rút ngắn lại 3 ngày rồi đi làm bình thường thì người Việt lại sợ mất đi cái cha ông truyền lại. Vị giáo sư đề nghị tổ chức Tết cổ truyền theo lịch dương thì đám đông người Việt lại la ó sợ bị Âu hóa, mất gốc.
4. Sợ hãi không có bằng cấp
Học là điều tốt, nhưng người Việt ham học vì sợ hãi. Người ta thường học cao để có tri thức, làm khoa học thì người Việt học vì bằng cấp, phần lớn để “không thua chị, kém anh” là chính. Họ tìm cách có bằng để khỏa lấp nỗi sợ hãi thua thiệt bằng cấp so với người khác. Số lượng người học nghề thường thua rất xa so với học để lấy bằng cao đẳng, đại học, thạc sỹ, tiến sỹ. Họ có thể lấy bằng theo nhiều cách, dù cái bằng đó chẳng giúp ích gì cho công việc thực tế, ngoài việc để bình xét.
Nhiều người học như đi sưu tập bằng cấp. Cả đời vài bằng đại học, vài bằng thạc sỹ, tiến sỹ, nhưng đóng góp cho học thuật, cho xã hội không hề tương xứng với số lượng bằng cấp họ có. Việt Nam hiện có số lượng tiến sỹ, thạc sỹ, giáo sư nhiều nhất Đông Nam Á, nhưng các báo cáo khoa học công bố quốc tế chỉ bằng một trường đại học ở Thái Lan. Một số người gọi kiểu học kiếm “bằng cấp” này là “học như ma đuổi”, một kiểu học trong sự sợ hãi.
5. Sợ khởi nghiệp
Rất nhiều gương khởi nghiệp thành công đã được báo chí nêu ra nhằm khích lệ người Việt khởi nghiệp, nhưng vẫn không làm giảm nỗi sợ hãi của người Việt. Một bộ phận rất đông vẫn cứ mong chờ được "Nhà nước” tạo cho công ăn việc làm, hoặc lo chạy công chức. Một bộ phận rất lớn khác đua nhau đi làm thuê, và gần như chỉ đủ ăn, mà phải làm quần quật suốt ngày.
Trong khi, một vài người biết khởi nghiệp từ những nghề như mở cửa hàng, cửa hiệu, mở công ty buôn bán lại sớm gặt hái thành công. Có người chỉ mở vài cái cửa hàng bán chè, phở, cơm, dưa cà... mà giàu có. Có người chỉ đi bán ngô luộc cũng giàu, thu nhập mỗi ngày 1-2 triệu đồng. Nhưng bao nhiêu công nhân khu công nghiệp có mức thu nhập như thế?
6. Sợ bắt đầu trước
Thường thì những cái mới, người Việt dù nhìn thấy, nghĩ được rằng nó hay, nó tốt nhưng lại phải chờ ai đó bắt đầu thành công thật sự rồi mới nghiên cứu áp dụng. Số đông sẽ thường đặt câu hỏi: tại sao nước A, nước B chưa làm mà vẫn thế này thế khác. Phần lớn mọi người mong muốn những thứ người ta đã làm rồi, nay được cho mình làm theo một cách miễn phí. Tâm lý “học trò ngoan” vẫn ăn sâu trong từng giọt máu Việt.
Chúng ta “hiếu học”, nhưng thiếu sự mạnh dạn và áp dụng sáng tạo. Phần lớn những người sáng tạo và mạnh dạn sáng tạo đều thành công, nhưng phần lớn người Việt lại không làm được điều đó. Họ vẫn cứ luôn “chờ đợi” ai đó dẫn dắt, ai đó đi trước giúp mình.
Người Việt thích sự an toàn. Nếu một mô hình nào đó được áp dụng tốt ở Trung Quốc, Mỹ hay đâu đó, thì người ta sẽ dễ dàng “chứng minh” rằng “có thể” sẽ được áp dụng tốt ở Việt Nam. Một người Việt nào mà dám sáng tạo cái mới, muốn áp dụng cái mới thì hãy chờ nhé, số đông không đồng ý đâu vì họ còn nhiều nỗi sợ hãi phải giải quyết trước đã. Cũng vì thế, làm khoa học ở Việt Nam là một quyết định rất khó khăn, vì khoa học thường gắn với cái mới, nhưng cái mới lại phải chờ đâu đó ở bên ngoài áp dụng thành công đã mới có hi vọng áp dụng ở Việt Nam. Vậy thì nhà khoa học của Việt Nam làm sao sáng tạo?
7. Sợ hãi vu vơ
Điển hình là cách ứng xử trước các tin đồn. Tôi còn nhớ mình đã phải cười ngặt nghẽo thế nào khi nghe nhiều người bạn kể rằng vợ họ dặn dò hay thậm chí cấm họ ra đường đi làm trong ngày 21/12/2012 vì lo sợ tận thế. Các chị em tích trữ lương thực đầy tủ lạnh, đầy nhà vì lo lắng trời sẽ tối sầm, sẽ mưa gió khi tận thế xảy ra.
Hay sự cuồng tín đến ngớ ngẩn trước lời phán vu vơ của thầy bói. Nhiều người Việt không tin rằng cuộc đời mình do chính mình định đoạt, họ đặt đời mình "trong tay, trong miệng" của những người xa lạ, chuyên bán nước bọt lấy tiền. Bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười đã xảy ra từ sự sợ hãi vô căn cứ ấy.
Tục ngữ có câu “già trái, non hột” rất đúng với kiểu tâm lý sợ hãi vu vơ này.
8. Sợ hội nhập
Hội nhập với thế giới là một cụm từ từng rất “nóng” trên các phương tiện thông tin của Việt Nam. Nhưng đồng thời với nó là cụm từ “hòa nhập nhưng không hòa tan”. Người Việt sợ rằng hội nhập sẽ làm mất đi “tính cách Việt”, “giá trị Việt”. Mà “tính cách Việt” là gì? Nhiều người nói vui rằng, đó là tính cách “ba phải”, lúc đầu thì “ra vẻ” bảo thủ, xong rồi thấy người ta làm hay quá rồi lại hùa nhau “bắt chước”. Sao không tự mình làm trước đi, cứ “ra vẻ” rồi sau lại “hùa theo” như thế nhỉ. Còn “giá trị Việt” là cái gì thì không ai rõ, vì khái niệm này chưa bao giờ được định nghĩa rõ ràng.
Hội nhập là nhập hội. Sẽ có những văn hóa của “Hội” mình phải theo, nhưng người Việt không đám “nuốt” và “tiêu hóa” chúng. Người Việt dị ứng với những thứ này.
Giống một đứa trẻ tự kỷ trong đám bạn cùng lớp, người Việt luôn sợ hãi không dám chơi “thoải mái” cùng đám bạn, vì nghĩ rằng mình “khác”. Đám bạn cũng vì thế mà e dè, sợ làm “tổn thương” tới đứa bạn “tự kỷ” ấy.
9. Sợ hãi trước chân lý
Nếu một người nào đó nói khác đi, dù đó là chân lý, cũng sẽ bị số đông bu vào ném đá, quăng gạch. Và vì vậy, nhiều người biết rằng mình cũng có suy nghĩ khác, những thà im lặng còn hơn. Họ sợ hãi cái thứ chân lý ấy.
Mà cũng xin nói thêm, đôi khi chân lý đó không phải là của hiện tại, đó là chân lý của tương lai. Những người dám nói, dám làm những điều mới mẻ thường bị mắng nhiếc bởi số đông, mà chính số đông ấy sẽ thừa nhận điều mình làm là đúng, là chân lý sau đó vài ba thập kỷ. Một sự thật quá bẽ bàng.
Tóm lại, người Việt luôn sợ hãi trước mọi thứ. Họ chỉ thực sự mạnh dạn khi bị đẩy tới bước đường cùng, hoặc có một ai thực sự dám đi trước dẫn dắt họ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét